Luật bản quyền và sở hữu trí tuệ có nhiệm vụ bảo vệ tài sản trí tuệ của mỗi cá nhân, hay các tổ chức, doanh nghiệp về một tác phẩm hay một sản phẩm độc quyền nào đó.
Hành vi vi phạm quyền tác giả trong luật sở hữu trí tuệ diễn ra thường xuyên và đang là vấn đề phức tạp ở nước ta trong những năm vừa qua. Do vậy, việc nâng cao ý thức bảo hộ tài sản trí tuệ cần được quan tâm nhiều hơn.
Luật sở hữu trí tuệ Việt Nam được thực hiện có hiệu lực từ ngày 1.7.2006 là luật quy định về quyền tác giả, quyền liên quan đến quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp, quyền đối với giống cây trồng và bảo hộ các quyền đó.
Quyền sở hữu trí tuệ bao gồm các quyền sau:
Là quyền của tổ chức, cá nhân đối với các tác phẩm do chính mình sáng tác ra hoặc sở hữu.
Là quyền của các cá nhân, các tổ chức đối với cuộc biểu diễn, các bản ghi âm, ghi hình, các chương trình phát sóng hay các tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hóa.
Là quyền của các cá nhân, các tổ chức đối với các sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế mạch bán dẫn, nhãn hiệu, tên thương hiệu thương mại, chỉ dẫn địa lý, bí mật kinh doanh do mình tạo ra và quyền chống cạnh tranh không lành mạnh.
Là quyền của các tổ chức, cá nhân đối với các giống cây trồng do mình chọn tạo hoặc phát triển.
Bất kì hành vi xâm phạm nào đối với các đối tượng được nêu trong luật bản quyền và sở hữu trí tuệ đều được coi là hành vi vi phạm, đều chịu sự trừng phạt của pháp luật.
Cụ thể hành vi vi phạm luật bản quyền và sở hữu trí tuệ bao gồm:
Do đó, các cá nhân, tổ chức kinh doanh cần nghiên cứu kĩ luật bản quyền và sở hữu trí tuệ để bảo vệ cho thương hiệu của mình đồng thời tránh hành vi vi phạm đến thương hiệu độc quyền của công ty, tổ chức khác. Từ đó, tạo ra môi trường kinh doanh lành mạnh, cùng nhau phát triển.
Thẻ:luat so huu tri tue, sở hữu trí tuệ