TCCS – Trong thời đại khoa học và công nghệ phát triển như vũ bão, sở hữu trí tuệ. Ngày càng trở thành một trong những công cụ được sử dụng để nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Và của cả nền kinh tế các quốc gia, trong đó có Việt Nam. Do vậy, cần nâng cao hiệu quả của hoạt động sở hữu trí tuệ ở nước ta hiện nay. Để tranh thủ được thời cơ cũng như giải quyết được những thách thức trong quá trình phát triển và hội nhập quốc tế.
Pháp luật quốc tế và pháp luật của hầu hết các quốc gia hiện đều công nhận. Và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ của các tổ chức, cá nhân. Nhằm mục đích khuyến khích hoạt động sáng tạo, phổ biến tiến bộ khoa học, công nghệ. Và văn hóa, nghệ thuật nhằm phục vụ phát triển kinh tế – xã hội và nâng cao chất lượng cuộc sống. Sở hữu trí tuệ thực sự đóng vai trò động lực thúc đẩy hoạt động đổi mới. Sáng tạo để phát triển tài sản trí tuệ quốc gia cả về số lượng và giá trị. Góp phần nâng cao năng lực sáng tạo và tạo lập một môi trường cạnh tranh lành mạnh.
Ở Việt Nam hiện nay, hệ thống sở hữu trí tuệ ở cấp Trung ương gồm ba lĩnh vực chuyên ngành. Thuộc thẩm quyền quản lý của ba bộ: Bộ Khoa học và Công nghệ (quản lý nhà nước về sở hữu công nghiệp. Và là cơ quan đầu mối quản lý chung về sở hữu trí tuệ, cơ quan đầu mối là Cục Sở hữu trí tuệ). Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (quản lý nhà nước về quyền tác giả và quyền liên quan, cơ quan đầu mối là Cục Bản quyền tác giả). Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (quản lý nhà nước về quyền đối với giống cây trồng. Cơ quan đầu mối là Văn phòng Bảo hộ giống cây trồng thuộc Cục Trồng trọt).
Ở địa phương, ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (thông qua các cơ quan chuyên môn giúp việc tương ứng. Là các sở khoa học và công nghệ, sở văn hóa, thể thao và du lịch; sở nông nghiệp và phát triển nông thôn). Quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ tại địa phương theo thẩm quyền.
Vào thời điểm Việt Nam nộp đơn gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Hệ thống bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ của Việt Nam vận hành. Chủ yếu trên cơ sở các văn bản quy phạm dưới luật. Gồm Pháp lệnh Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp (năm 1989). Và Pháp lệnh Bảo hộ quyền tác giả (năm 1994). Được xây dựng từ hệ thống văn bản pháp quy (các nghị định của Chính phủ và các thông tư hướng dẫn của các bộ).
Để đáp ứng các yêu cầu về “tính đầy đủ” và “tính hiệu quả” của Hiệp định. Về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ (Hiệp định TRIPS của WTO). Và các điều ước quốc tế song phương và đa phương khác về sở hữu trí tuệ. Năm 2005 Việt Nam đã ban hành Luật Sở hữu trí tuệ. Thay đổi toàn bộ cấu trúc của hệ thống các văn bản pháp luật về sở hữu trí tuệ của Việt Nam. Chuyển từ hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật đơn hành với nhiều quy định còn thiếu tính thống nhất.
Và đồng bộ thành một luật chuyên ngành thống nhất. Luật Sở hữu trí tuệ (được sửa đổi năm 2009) cùng với 17 nghị định quy định chi tiết, 19 thông tư. Và thông tư liên tịch hướng dẫn thi hành góp phần đưa các quy định về sở hữu trí tuệ của Việt Nam. Không chỉ đáp ứng các tiêu chuẩn của các điều ước quốc tế. Mà còn tiến gần hơn đến hệ thống sở hữu trí tuệ của nhiều nước tiên tiến trên thế giới.
Hiện nay, Việt Nam đã là thành viên của các điều ước quốc tế mang tính cốt lõi của hệ thống sở hữu trí tuệ thế giới. Như Công ước Pa-ri (Paris) về Bảo hộ sở hữu công nghiệp. Công ước Bơn (Berne) về Bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật. Công ước Rôm (Rome) về Bảo hộ người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm và tổ chức phát sóng.
Công ước quốc tế về Bảo hộ giống cây trồng mới (Công ước UPOV). Công ước Xtốc-khôm (Stockholm) về Việc thành lập Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO)…; Các điều ước quốc tế về thuận lợi hóa thủ tục đăng ký quốc tế quyền sở hữu trí tuệ. Như Hiệp ước Hợp tác sáng chế (Hiệp ước PCT); Thỏa ước và Nghị định thư Ma-đrít (Madrid). Về Đăng ký quốc tế nhãn hiệu và hiện đang trong quá trình chuẩn bị gia nhập Hệ thống La Hay. Về đăng ký quốc tế kiểu dáng công nghiệp.
Dấu mốc đầu tiên của hoạt động hợp tác quốc tế trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ của Việt Nam. Là việc ký kết Hiệp định khung về hợp tác sở hữu trí tuệ giữa các nước ASEAN năm 1995. Sau đó, song song với quá trình đàm phán gia nhập WTO. Việt Nam bắt đầu đàm phán và ký kết các hiệp định hợp tác với Thụy Sĩ (năm 1999); với Hoa Kỳ (năm 2000). Với Nhật Bản, Liên bang Nga (năm 2008) và hàng loạt hiệp định hợp tác về khoa học kỹ thuật. Trong đó có các điều khoản về sở hữu trí tuệ.
Sau quá trình gia nhập WTO, cùng với xu thế hội nhập kinh tế thế giới. Sở hữu trí tuệ cũng dần trở thành một vấn đề ngày càng quan trọng. và đang là một phần không thể thiếu trong các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới. Theo đó, ở giai đoạn này, Việt Nam đã chủ động và tích cực tham gia đàm phán 6 hiệp định thương mại tự do. Trong đó 2 hiệp định thương mại tự do đã có hiệu lực (Hiệp định giữa Việt Nam. Và Liên minh kinh tế Á – Âu và Hiệp định giữa Việt Nam và Hàn Quốc. 2 hiệp định thương mại tự do đã kết thúc đàm phán. Và đang trong quá trình phê chuẩn; 2 hiệp định thương mại tự do đang tiếp tục đàm phán).
Về xác lập quyền sở hữu công nghiệp, trong giai đoạn 10 năm kể từ khi Luật Sở hữu trí tuệ có hiệu lực (2006 – 2016). Tổng số các loại đơn sở hữu công nghiệp mà Cục Sở hữu trí tuệ (Bộ Khoa học và Công nghệ). Tiếp nhận tăng trung bình mỗi năm khoảng 10% – 15%. Về xác lập quyền đối với giống cây trồng, sau khi Luật Sở hữu trí tuệ được ban hành.
Cục Trồng trọt (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) tiếp nhận 927 đơn đăng ký bảo hộ quyền đối với giống cây trồng. Và cấp 432 Bằng bảo hộ đối với giống cây trồng. Trong số đó, đơn xác lập quyền có nguồn gốc Việt Nam chiếm tỷ lệ cao hơn nhiều so với đơn có nguồn gốc từ nước ngoài. (Tính từ năm 2004 đến 2016 tổng số đơn có nguồn gốc Việt Nam gấp khoảng 2,5 lần số đơn có nguồn gốc từ nước ngoài).
Về xác lập quyền tác giả và quyền liên quan, theo quy định của pháp luật. Đăng ký các quyền này không phải là thủ tục bắt buộc để được hưởng quyền tác giả và quyền liên quan. Tuy nhiên, nhận thức được lợi ích của việc đăng ký quyền tác giả. Và quyền liên quan, nhiều tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả và quyền liên quan đã nộp hồ sơ để được cấp Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả, Giấy chứng nhận đăng ký quyền liên quan.
Theo đó, trong vòng 10 năm kể từ khi Luật Sở hữu trí tuệ được ban hành (số liệu tính đến hết năm 2015), Cục Bản quyền tác giả đã thụ lý và cấp 43.450 Giấy chứng nhận đăng ký. Trong đó có 43.321 Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả. 129 Giấy chứng nhận đăng ký quyền liên quan. Số lượng Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả. Giấy chứng nhận đăng ký quyền liên quan tăng hằng năm khoảng 6%.
Về hoạt động bảo vệ quyền sở hữu trí tu. Mặc dù quyền sở hữu trí tuệ về bản chất là quyền dân sự nhưng thời gian qua. Hoạt động bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ bằng biện pháp dân sự ở nước ta còn hạn chế. Theo số liệu thống kê của Tòa án Nhân dân tối cao. Từ ngày 1-7-2006 đến 30-9-2016, các tòa án đã thụ lý theo thủ tục sơ thẩm 182 vụ án dân sự. Liên quan đến các tranh chấp về sở hữu trí tuệ (trong đó có 158 vụ tranh chấp về quyền tác giả. 10 vụ tranh chấp về quyền sở hữu công nghiệp), đã giải quyết 174 vụ. Giải quyết 200/235 vụ tranh chấp kinh doanh thương mại liên quan đến sở hữu trí tuệ.
Với những ưu thế về thời gian, thủ tục và chi phí. Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ bằng biện pháp hành chính hiện. Vẫn giữ vai trò chủ đạo trong hoạt động bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ. Trong giai đoạn 2012 – 2015, thanh tra ngành văn hóa. Thể thao và du lịch đã kiểm tra và xử lý vi phạm hành chính đối với 386 tổ chức. Và cá nhân thực hiện hành vi xâm phạm quyền tác giả. Và quyền liên quan, phạt tiền đối với 384 trường hợp với tổng số tiền phạt trên 9 tỷ đồng.
Thanh tra ngành khoa học và công nghệ đã xử lý 473 vụ việc xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp. Trong đó phạt cảnh cáo: 66 vụ, việc, phạt tiền: 264 vụ việc với số tiền xử phạt gần 6 tỷ đồng. Lực lượng quản lý thị trường (Bộ Công Thương) đã kiểm tra và xử lý đối với 22.441 vụ, việc buôn bán hàng giả, hàng xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ.
Đã xử phạt vi phạm hành chính với số tiền gần 53 tỷ đồng đối với các tổ chức, cá nhân vi phạm. Biện pháp hình sự được áp dụng đối với hành vi cố ý giả mạo nhãn hiệu. Chỉ dẫn địa lý và sao chép lậu quyền tác giả, quyền liên quan ở quy mô thương mại. Hoặc đạt tới các ngưỡng hình sự về trị giá hàng giả mạo. Hàng sao chép lậu, thu lợi bất chính hoặc thiệt hại.
Viện Khoa học sở hữu trí tuệ thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ. (Hiện nay là tổ chức giám định sở hữu công nghiệp duy nhất). Thường xuyên cung cấp ý kiến giám định cho các cơ quan bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ. Cũng như các doanh nghiệp và cá nhân. Từ tháng 9-2009 đến năm 2016, đã có 3.829 vụ, việc giám định được thực hiện. Trong đó 416 vụ theo trưng cầu của cơ quan có thẩm quyền mà chủ yếu là các cơ quan bảo vệ quyền. (383 yêu cầu, trong đó 57,7% từ cơ quan quản lý thị trường, 29% từ cơ quan công an. Số còn lại từ các cơ quan khác, như thanh tra khoa học và công nghệ, hải quan, tòa án nhân dân).
Bên cạnh đó, nước ta cũng có hàng loạt các chính sách hỗ trợ, thúc đẩy sáng tạo. Chuyển giao và phổ biến tài sản trí tuệ. Trong đó có nhiều chính sách được luật hóa cũng như các chương trình hỗ trợ đã được triển khai. Bao gồm chính sách về trao quyền (trao quyền tự chủ cho các tổ chức nghiên cứu khoa học. Và doanh nghiệp khoa học công nghệ. Trao quyền đăng ký sáng chế, quản lý, khai thác sáng chế cho tổ chức chủ trì dự án nghiên cứu).
Chính sách, cơ chế phân chia quyền, lợi ích trong hợp tác nghiên cứu công – tư. Chính sách khuyến khích khai thác sáng chế tạo ra từ nguồn kinh phí của Nhà nước. Chính sách hỗ trợ phát triển tài sản trí tuệ tại doanh nghiệp thông qua Chương trình hỗ trợ phát triển tài sản trí tuệ… Riêng Chương trình hỗ trợ phát triển tài sản trí tuệ. Trong giai đoạn 2011 – 2015 đã hỗ trợ thực hiện 213 dự án. Giai đoạn 2016 – 2020 đã và đang triển khai hỗ trợ 23 dự án.
Bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động sở hữu trí tuệ ở nước ta tồn tại không ít hạn chế. Về mặt cơ cấu tổ chức chung của hệ thống sở hữu trí tuệ. Mô hình ba cơ quan phụ trách ba lĩnh vực khác nhau. Về quyền sở hữu trí tuệ hoạt động quản lý không tập trung. Liên kết rời rạc, không có tính hệ thống, cơ chế phối hợp liên ngành còn yếu, không chặt chẽ.
Đến nay, hệ thống văn bản pháp luật vẫn tương đối cồng kềnh và phức tạp. Gồm nhiều tầng nấc với các văn bản hướng dẫn thi hành khác nhau. Tính đồng bộ và thống nhất trong quy định giữa các văn bản pháp luật chưa cao. Một số quy định chưa chi tiết, rõ ràng dẫn đến nhiều cách hiểu và thi hành khác nhau. Một số quy định còn thiếu tính khả thi. Không thực sự phù hợp với thực tiễn phát triển kinh tế – xã hội của Việt Nam.
Về xác lập quyền sở hữu công nghiệp, thời gian xử lý đơn kéo dài. Chưa bảo đảm đúng thời hạn luật định. Quá trình xử lý đơn chưa thật sự công khai, minh bạch khiến cho người nộp đơn. Và công chúng tiếp cận thông tin chưa được dễ dàng. Về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, hiện có nhiều cơ quan có thẩm quyền xử phạt hành chính.
Không có đầu mối chính, mỗi cơ quan phụ trách một lĩnh vực (chuyên ngành). Hoặc một phạm vi (trên thị trường, tại nơi sản xuất), phạm vi thẩm quyền. Và trách nhiệm của các cơ quan còn có sự trùng lặp. Chưa có sự phối hợp chặt chẽ; hoạt động cập nhật, trao đổi thông tin giữa các bộ, ngành, địa phương. Chưa kịp thời dẫn đến sự phối hợp giữa các cơ quan liên quan chưa phát huy được hiệu quả.
Trong khi đó, hệ thống tòa án chưa đủ nhân lực được đào tạo. Và có kinh nghiệm để giải quyết nhanh chón. Và hiệu quả các vụ, việc phức tạp về sở hữu trí tuệ. Cơ chế giải quyết tranh chấp qua trung gian hòa giải, trọng tài chưa được phát huy.
Nhận thức của người dân, các tổ chức, doanh nghiệp. Về bảo hộ và bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ chưa cao. Chưa có ý thức chủ động tự bảo vệ quyền của mình. Cũng như tôn trọng quyền sở hữu trí tuệ của người khác. Chủ thể quyền và các tổ chức đại diện sở hữu công nghiệp chưa vượt qua được tâm lý ngại đụng chạm đến tòa.Và vẫn ưu tiên lựa chọn biện pháp hành chính để yêu cầu xử lý xâm phạm quyền…
Nguồn biên soạn